30 tháng 12, 2013
CÙ LAO PHỐ - Vang vọng tiếng người xưa.
"Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng
Nai thì về
Đường về xứ bạn
không xa
Qua vùng Đất Đỏ
rồi ra Biên Hoà"
Câu ca ấy man mác như dòng sông Đồng Nai hôm nay!
Câu ca ấy man mác như dòng sông Đồng Nai hôm nay!
Có lẽ tôi có duyên (có nợ) gì đó với vùng đất miền Nam, chứ tôi không có gốc gác gì ở xứ sở này. Đất Biên Hòa, tôi đã sinh sống được trên 15 năm, nên nơi đây là quê hương thứ hai, chỉ còn thiếu một quê nhà. Ngay giữa lòng thành phố này, tôi đã hạnh phúc khi mình có được một khoảng thời gian đủ dài để trải mình với năm tháng tinh khôi và sung mãn nhất của tuổi trẻ, tuổi vừa mới ra đời lập thân. Tôi đã yêu Biên Hòa, đã từng vui buồn và suy tư cùng thành phố. Nhưng thật thậm tệ, vì là người hay viết, sao tôi vẫn chưa có một trang viết nào về thành phố tôi yêu, cũng như viết về vùng đất thoáng đạt của xứ sở sông nước phù sa Nam Kỳ.
Thế hệ
trước tôi ở Đồng Nai, nhà văn Hoàng Văn Bổn được xem là cây đa, cây đề của
làng văn “Gia Định – Đồng Nai”. Trong các tác phẩm của người đều có nhiều nét hình
ảnh đất nước và con người Đồng Nai. Tuy vậy nhà văn Hoàng Văn Bổn cũng chỉ dừng
lại là người “giữ hồn xứ sở” chứ chưa phải như Nguyễn Đắc Xuân ở Huế hoặc nhà
“Quảng Nam học” Nguyễn Văn Xuân hay nhà “Quảng Bình học” Nguyễn Tú…Nói vậy chứ không phải miền đất nào cũng có người như các "vị" trên, họ đã mang tinh huyết trí lực của mình để gìn giữ cho quê hương những hồn thiêng sông núi, khí thiêng con người trong từng trang viết.
Nay là những ngày cuối năm, như chợt tỉnh nhớ ra điều gì, tôi lang thang qua Cù Lao Phố để tìm hiểu những điều còn nhắc nhở trong những câu chuyện kể lịch sử của vùng đất. Ngày nay, Cù lao Phố vẫn còn đó, nhưng tháng năm đã phủ bụi trần ai, những khoảnh khắc lịch sử “một thời cha ông đi mở cõi” đã mai một đi rất nhiều.
Đến thăm rồi biết đặt bút viết gì đây, về một nơi không chỉ có giá trị về mặt bảo tồn văn hóa mà còn là nơi lưu giữ nhiều yếu tố lịch sử. Vả lại viết gì trước thực trạng nhiều "nét xưa" của Cù Lao Phố không được trùng tu. Bởi rồi một thời gian không xa, nhiều di tích đình nơi đây sẽ biến dạng và mất dần....... Thôi, viết để kẻo quên những địa linh nhân kiệt, những di tích cổ xưa đã phủ dày lớp bụi thời gian. Điều ấy với tôi như là điều cần thiết trong nhịp sống gấp gáp xô bồ của ngày tháng hôm nay.
CÙ LAO PHỐ - Ngược dòng thời
gian.
Cù Lao Phố còn gọi là Đông Phố. Đó
là một “thẻo đất” có hình dạng chiếc chuông treo nghiêng, được bao bọc
bởi sông Rạch Cát và sông Đồng Nai, cách trung tâm thành phố Biên Hòa
(Tòa nhà UBND Tỉnh Đồng Nai) chưa đầy 1 km. Với nhà tôi cũng vậy, Cù Lao Phố nằm bên kia sông Đồng Nai, nên đây với tôi không phải là địa
danh quá lạ lẫm, nhưng sẽ lại mới mẻ cho mọi người mỗi
lần nghe tên hay đặt chân đến nơi này.
Cù Lao Phố có sông sâu, nước
chảy, có đồng ruộng tươi tốt, trù phú, cây trái quanh năm. Từ Cù Lao Phố có thể
ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, và xuống phía Nam để
có thể ra biển Cần Giờ hay sang tận Camphuchia. Cù Lao Phố trước kia còn
có khu phố cổ. Dấu tích xưa của vùng đất này đã có trong thư tịch cổ, đặc biệt là sách “Gia
Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức có mô tả quang cảnh Cù lao
Phố xưa rất rõ: “... phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng
liền lạc tới 5 dặm, chia vạch ra ba đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang
lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng; ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu
neo, có những xà lan liên tiếp nhau. Ấy là một chỗ đại đô hội, nhà buôn to lớn
ở đây là nhiều hơn”.
Cù lao Phố chỉ rộng khoảng 694 ha,
nhưng nơi đây được xem là nơi lưu giữ các công trình tín ngưỡng, thờ tự dày đặc
với 11 ngôi đình, 7 ngôi chùa và 1 thánh thất Cao Đài. Tuy những dấu tích cũ ấy
vẫn đang còn nằm lẩn khuất giữa vườn tược xóm thôn, nhưng cũng đủ để tôi hình
dung một thời những gì vùng đất này đã có một khí thiêng riêng, anh linh riêng, phong hóa riêng, tất cả đều hòa nguyện. Những di tích ở đây không nguy nga như lăng tẩm, diện
các của vua chúa, nhưng mọi người vẫn thấy được chút hơi hám của người
xưa.....
Theo lịch sử ghi, người có công lớn trong công cuộc khai phá vùng đất Cù lao Phố là Trần Thượng Xuyên tự Trần Thắng Tài (? – 1720), ông nguyên là tổng binh ba châu Cao- Lôi- Liêm dưới triều Minh, vì không chịu làm tôi cho nhà Thanh nên đã dẫn thuộc hạ sang thần phục chúa Nguyễn Phúc Tần. Vào năm 1679 nhóm người Hoa khoảng 3.000 người từ Quảng Đông do ông và Dương Ngạn Địch cầm đầu đi trên 50 chiếc “ghe bầu cưỡi đầu ngọn sóng”, xuôi theo dòng nam tiến tìm chốn mưu sinh và được Chúa Nguyễn chấp thuận. Ban đầu nhóm người này đặt chân đến Bàn Lân (ngày nay thuộc Biên Hòa) lập nghiệp, còn Cù Lao Phố là rừng rú, hoang vu, chỉ có một vài dân tộc bản địa sinh sống. Vốn là người ở vùng Đông Nam Trung Quốc, thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra bãi bồi cù lao này rất thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống, nên một phần lớn nhóm người Hoa đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Lúc bấy giờ, với truyền thống của người Hoa là thương mại, bản tính cần mẫn, kiên trì, họ đã từng bước gây dựng Cù lao Phố thành thương cảng sầm uất của miền Nam. Trong lịch sử phát triển của mình cù Lao Phố phát triển nhiều ngành nghề như: dệt chiếu, trồng dâu nuôi tằm, nghề gốm, đúc đồng, làm mộc, làm pháo, nấu mía lấy đường. Các nghề này đã để lại dấu tích một thời qua các địa danh: chợ Chiếu, xóm Củi, xóm Lò Đúc, rạch Lò gốm.... Đó là những tên đất, tên làng đều gợi nhiều tò mò thắc thỏm của biết bao người phương xa đến muốn hiểu cội nguồn gốc rễ.
Theo lịch sử ghi, người có công lớn trong công cuộc khai phá vùng đất Cù lao Phố là Trần Thượng Xuyên tự Trần Thắng Tài (? – 1720), ông nguyên là tổng binh ba châu Cao- Lôi- Liêm dưới triều Minh, vì không chịu làm tôi cho nhà Thanh nên đã dẫn thuộc hạ sang thần phục chúa Nguyễn Phúc Tần. Vào năm 1679 nhóm người Hoa khoảng 3.000 người từ Quảng Đông do ông và Dương Ngạn Địch cầm đầu đi trên 50 chiếc “ghe bầu cưỡi đầu ngọn sóng”, xuôi theo dòng nam tiến tìm chốn mưu sinh và được Chúa Nguyễn chấp thuận. Ban đầu nhóm người này đặt chân đến Bàn Lân (ngày nay thuộc Biên Hòa) lập nghiệp, còn Cù Lao Phố là rừng rú, hoang vu, chỉ có một vài dân tộc bản địa sinh sống. Vốn là người ở vùng Đông Nam Trung Quốc, thạo nghề mua bán và công nghệ, họ đã phát hiện ra bãi bồi cù lao này rất thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống, nên một phần lớn nhóm người Hoa đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố tiến hành khai khẩn quy mô lớn. Lúc bấy giờ, với truyền thống của người Hoa là thương mại, bản tính cần mẫn, kiên trì, họ đã từng bước gây dựng Cù lao Phố thành thương cảng sầm uất của miền Nam. Trong lịch sử phát triển của mình cù Lao Phố phát triển nhiều ngành nghề như: dệt chiếu, trồng dâu nuôi tằm, nghề gốm, đúc đồng, làm mộc, làm pháo, nấu mía lấy đường.
Cho đến thế kỷ 18, Cù lao Phố vẫn còn biết đến như một thương phố bậc nhất, thu hút nhiều thương
nhân nước ngoài tới buôn bán. Phố thị sầm uất, lầu cao quán rộng, đường sá rộng
rãi... không thua kém Hội An. Nhưng tiếc thay cho thế hệ hậu sinh sau này. Từ năm
1776 đến 1782 sau 4 lần quân Tây Sơn giao tranh với Chúa Nguyễn ở núi Châu Thới, Nông Nại Đại
Phố chìm ngập trong khói lửa, hoang tàn. Số người Hoa ở đây lần lượt kéo đến vùng Chợ Lớn
làm ăn, đón nguồn nông sản dồi dào của vùng Đồng bằng sông Cửu Long để buôn
bán. Từ đây thương cảng Sài Gòn được lập nên thay cho Thương cảng Nông Nại lụi
tàn.
Lịch sử đi qua, những triều đại đi
qua, nhưng những giá trị từng chứa đựng ở vùng đất này thì bất diệt. Đất của
người xưa và những di tích còn lại là những giá trị tuyệt vời của dân tộc, của
một vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Khi tôi viết những dòng này cũng là lúc người dân Cù Lao Phố sau 38 năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn giải phóng mới có
được niềm vui. Đó là chính quyền tỉnh Đồng Nai vừa mới xây xong 2 chiếc cầu
trên sông Rạch Cát và sông Đồng Nai để nối vùng đất mà từ lâu lắm rồi bị ngưng
trệ trong cái thắt nút chai. Bởi từ trước đến nay, Cù Lao Phố muốn đi lại các nơi cũng chỉ bằng con đường độc đạo là chung với đường....xe lửa Bắc - Nam.
"Cầu xây xong đã ....có", nhưng khi đặt chân đến nơi đây, tôi thấy nhiều di tích tại Cù Lao Phố chưa được các cấp chính quyền quan tâm, phục hồi đúng mức “nếp cũ, tích xưa”. Có lẽ do chưa có quy chế bảo tồn (?) nên tôi thấy chỉ có một đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được tu bổ khang trang. Một già làng ở đây có nói với tôi rằng, hiện nay mọi sự chăm sóc kiến trúc và cảnh quan đình đang tùy thuộc vào sự quan tâm của người dân trong làng, nhưng vẫn có một số đình như Hòa Quới, Bình Quan... cảnh quan rất hoang tàn khủng khiếp.
Đồng Nai hiện nay có các địa danh, di tích cổ như Văn Miếu Trấn Biên, phần mộ Nguyễn Hữu Cảnh (nơi trước đây di quan Đức ông Nguyễn Hữu Cảnh về chôn cất), phần mộ Trịnh Hoài Đức, Vườn bưởi nổi tiếng Tân Triều. Nhưng nếu việc xây dựng và tái hiện lại một không gian văn hóa truyền thống ở Cù lao Phố như tỉnh Đồng Nai đã từng xây dựng lại khu Văn Miếu Trấn Biên thì việc khai thác những nơi “hồn xưa chốn cũ” ở Cù lao Phố còn nhiều. Nều tôn tạo lại những ngôi đình, chùa thâm nghiêm ẩn mình trong lớp “bụi thời gian” sẽ là nét độc đáo để chúng ta có thể tìm hiểu về lịch sử vùng đất “một thời vang bóng”. Gần sát trung tâm thành phố Biên Hòa, nhưng Cù Lao Phố vẫn mang đậm nét quê Nam Bộ êm ả lạ thường. Và nơi đây còn thêm vấn đề về lịch sử nên rất có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Nếu không xây dựng và phát triển thì mọi người chẳng biết các cấp chính quyền sẽ chọn nơi đâu!?.
Cuối năm, tôi đến Cù lao Phố mọi thứ vẫn chưa có gì nhộn nhịp. Dẫu vậy, tôi cũng đã được chìm đắm trong không gian hoài niệm thuở cha ông ta đi mở cõi. Làn gió mát từ sông Đồng Nai cứ nhẹ nhàng, man mác thổi vào vùng đất vốn bình dị của một thương phố ngày xưa. Biên Hòa - Đồng Nai, đây đâu có phải "khi ta ở chỉ là nơi đất ở", con người ai cũng yêu nơi sống của mình bằng một cách riêng. Tôi trăn trở với chính mình dù biết những điều viết ra không thể nào nói hết, như những vòng xoay nghiệt ngã của con tạo cuốn trôi và năm tháng đã phủ dày bụi trần lên gần như tất cả......
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHỤP TẠI ĐỀN THỜ NGUYỄN HỮU CẢNH - CÙ LAO PHỐ.
"Cầu xây xong đã ....có", nhưng khi đặt chân đến nơi đây, tôi thấy nhiều di tích tại Cù Lao Phố chưa được các cấp chính quyền quan tâm, phục hồi đúng mức “nếp cũ, tích xưa”. Có lẽ do chưa có quy chế bảo tồn (?) nên tôi thấy chỉ có một đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được tu bổ khang trang. Một già làng ở đây có nói với tôi rằng, hiện nay mọi sự chăm sóc kiến trúc và cảnh quan đình đang tùy thuộc vào sự quan tâm của người dân trong làng, nhưng vẫn có một số đình như Hòa Quới, Bình Quan... cảnh quan rất hoang tàn khủng khiếp.
Đồng Nai hiện nay có các địa danh, di tích cổ như Văn Miếu Trấn Biên, phần mộ Nguyễn Hữu Cảnh (nơi trước đây di quan Đức ông Nguyễn Hữu Cảnh về chôn cất), phần mộ Trịnh Hoài Đức, Vườn bưởi nổi tiếng Tân Triều. Nhưng nếu việc xây dựng và tái hiện lại một không gian văn hóa truyền thống ở Cù lao Phố như tỉnh Đồng Nai đã từng xây dựng lại khu Văn Miếu Trấn Biên thì việc khai thác những nơi “hồn xưa chốn cũ” ở Cù lao Phố còn nhiều. Nều tôn tạo lại những ngôi đình, chùa thâm nghiêm ẩn mình trong lớp “bụi thời gian” sẽ là nét độc đáo để chúng ta có thể tìm hiểu về lịch sử vùng đất “một thời vang bóng”. Gần sát trung tâm thành phố Biên Hòa, nhưng Cù Lao Phố vẫn mang đậm nét quê Nam Bộ êm ả lạ thường. Và nơi đây còn thêm vấn đề về lịch sử nên rất có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Nếu không xây dựng và phát triển thì mọi người chẳng biết các cấp chính quyền sẽ chọn nơi đâu!?.
Cuối năm, tôi đến Cù lao Phố mọi thứ vẫn chưa có gì nhộn nhịp. Dẫu vậy, tôi cũng đã được chìm đắm trong không gian hoài niệm thuở cha ông ta đi mở cõi. Làn gió mát từ sông Đồng Nai cứ nhẹ nhàng, man mác thổi vào vùng đất vốn bình dị của một thương phố ngày xưa. Biên Hòa - Đồng Nai, đây đâu có phải "khi ta ở chỉ là nơi đất ở", con người ai cũng yêu nơi sống của mình bằng một cách riêng. Tôi trăn trở với chính mình dù biết những điều viết ra không thể nào nói hết, như những vòng xoay nghiệt ngã của con tạo cuốn trôi và năm tháng đã phủ dày bụi trần lên gần như tất cả......
Viết cuối năm 2013
Andi Nguyễn Ánh NhậtMỘT SỐ HÌNH ẢNH CHỤP TẠI ĐỀN THỜ NGUYỄN HỮU CẢNH - CÙ LAO PHỐ.
27 tháng 12, 2013
Đến Thượng đế cũng phải cười ...khà khà !
Ngày nay là thời đại Digital, nhưng người
Phương đông nói chung và người Việt Nam nói riêng vẫn còn e dè khi nhìn những bức hình Nude hay sự biến thiên “kỳ cục”
của tạo hóa cho muôn loài cỏ cây. Trong khi đó có những bức hình Nude là một
tác phẩm tuyệt mỹ nhất của tạo hóa dành cho con người. Còn với cỏ cây,
tạo hóa cũng ban tặng cho muôn loài này những hình hài độc đáo, ngộ nghĩnh như một
tặng phẩm nghệ thuật để cho con người chiêm ngưỡng. Và chỉ có con người mới cảm thụ
được nét độc đáo của vũ trụ bao la này bằng con mắt yêu nghệ thuật và yêu cái đẹp
thay vì phải nhìn bằng con mắt phàm tục lấy…. “Thanh giảng tục”. Những bức hình
sau đây, Thượng đế cũng đã phải …..cười khà khà. Còn chúng ta bạn hãy cùng ngắm,
không cần suy nghĩ, chỉ cười chút chơi để lấy hứng thú cho một tuần làm việc
vất vả ! Xin cảm ơn !
Andi
Nguyễn Ánh Nhật – Sưu tầm và biên tập
Andi Nguyễn Ánh Nhật.
24 tháng 12, 2013
Noel Sài Gòn năm nay 2013
Nghe nói Miền Trung đang lạnh và mưa, nhưng Sài Gòn không khí
trời thật đẹp. Suốt hai tháng 10 và 11 miền Trung lụt bão liên miên khiến người
dân nơi đây lâm vào cảnh khốn đốn tận cùng. Mùa màng mất trắng. Nhà cửa, đường
xá hư hỏng. Rau cỏ, heo gà, cá tôm không còn một con. Nghe nói hàng loạt thanh
niên Nghĩa Hành, Tư Nghĩa - Quảng Ngãi bỏ đi làm ăn xa để kiếm tiền tiêu Tết chứ Noel này...bỏ qua.
Mấy hôm rày tớ ở Sài Gòn, mọi người
thấy tớ lân la trong này lại hỏi, sao ko ở miền Trung đón Noel?.Tớ biết trả lời
gì hơn qua nói thật : "Trốn nợ!". Heeee!
Chúa sinh trong máng cỏ nghèo. Chúa
là biểu tượng của tình thương yêu dành cho người cùng khổ. Nhưng đó là hai mươi
mốt thế kỷ trước. Không biết những người khổ như tớ, liệu Chúa có giúp được gì
ko?. Mà giả như giúp được cho tớ, chắc gì chỉ người nghèo như tớ mới cầu xin ơn
Chúa. Còn Bầu Kiên, Dương Chí Dũng, còn nhiều vị tai to mặt lớn nữa, tớ biết họ
cũng đang cầu nguyện van xin Chúa giảm cho tù tội, lại cũng không muốn trở về với
đất. Có khi họ lại còn than vãn và phân bì với Chúa là đang nghèo, đang khổ hơn
nhiều người như tớ! .
Lạy Chúa! Hãy ban giúp hết cho chúng
con, đứa nào ở trên trần gian cũng đều có tội! Amen!
Không khí Giáng sinh năm nay ở Sài
Gòn đến sớm. Không chỉ hôm nay mà ngày hôm qua, hôm kia nhiều ngả đường khu vực
trung tâm Sài Gòn "ngộp thở". Người người từ các quận huyện tuôn về
nơi “Thánh địa” : Nhà Thờ Đức Bà, nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế .v.vv.. như mắc
cưỡi. Bởi vậy chiều qua tớ về nhà thằng em ruột ở đường Lê Văn Sỹ cũng phải
“chôn chân” không nhúc nhích hơn cả tiếng đồng hồ.
Sài Gòn là “Hòn Ngọc Viễn Đông”,
nhưng danh hiệu này mấy năm nay bị thành phố của một vài nước Đông Nam Á
cướp mất. Bao nhiêu người giàu- chủ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, người chơi
chứng khoán, đầu cơ vàng, nhà đất... đều tan hoang, sạch túi. Trong giới văn
nghệ, như ông “vua” làng giải trí Phước Sang cũng phải te tua. Ca sĩ Siu chỉ
còn con đường độn thổ. Còn thằng bạn tớ làm nghề xây dựng, mấy năm nay hắn cứ
nghêu ngao: “Anh không chết đâu em, người anh hùng áo bạc tên …..”. Nhưng nay
nghe giang hồ đồn đoán hắn cũng cùng chung số phận như ai.
Vậy là người giàu đi tong đã kéo theo bao nhiêu người cùng khổ, giới công chức, công nhân đều chưa nghe đồng tiền thưởng Tết. Cuộc sống ảnh hưởng dây chuyền tới mọi tầng lớp nhân dân. Như nhìn những tờ bướm hàng hóa xa xỉ đồng loạt giảm giá nhân dịp lễ Giáng sinh nhưng ế ẩm vì sự tiết kiệm quá mức của mọi người. Nhìn tình cảnh này, ai đó là người lạc quan cũng phải thấy hoang mang.
Vậy là người giàu đi tong đã kéo theo bao nhiêu người cùng khổ, giới công chức, công nhân đều chưa nghe đồng tiền thưởng Tết. Cuộc sống ảnh hưởng dây chuyền tới mọi tầng lớp nhân dân. Như nhìn những tờ bướm hàng hóa xa xỉ đồng loạt giảm giá nhân dịp lễ Giáng sinh nhưng ế ẩm vì sự tiết kiệm quá mức của mọi người. Nhìn tình cảnh này, ai đó là người lạc quan cũng phải thấy hoang mang.
Noel Sài Gòn đến sớm, Noel Sài Gòn
đông vui, háo hức ….âu đó cũng chỉ nhoáng bề ngoài. Còn trong thực tế, đời sống
mọi người, mọi giới đều “vui là vui gượng” kẻo mà Noel qua!
Andi Nguyễn Ánh Nhật
20 tháng 12, 2013
Có thể bạn chưa rõ về truyền thuyết ông già Noel
Ngược dòng thời gian, truyền thuyết về Ông già
Noel có lẽ đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Theo truyền thuyết, giám
mục thành Myra, sinh ở Thổ Nhỉ Kỳ năm 279 sau CN, nổi tiếng vì cả cuộc đời ông
dành cho các hoạt động bác ái.. Đến thế kỷ thứ 9 sau CN, Hội thánh công Giáo đã
làm lễ phong thánh cho ông với cương vị Thánh bổn mạng trẻ em. Từ đó đã ra đời
tên gọi Santa Clauss (tên mà người Anh, Mỹ gọi là Ông già Noel) tức đọc trại đi
từ St. Nicholas. Theo truyền tụng, Thánh Nicholas lúc còn sống làm Giám mục
Myra đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của ba cô gái trẻ đến tuổi
lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia đình của các cô
quá nghèo.. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống vào đúng các đôi bít
tất mà các cô treo hông bên lò sưởi. Từ đó có tục trẻ em treo tất bên lò sưởi để
nhận quá của ông già Noel.
Từ đó hình ảnh ột ông già tốt tướng, hiền lành
chuyên đem quà phân phát cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em nghèo, ngoan và có hiếu
lan rộng, hòa nhập với các tập tục mừng Giáng sinh và mừng ngày Đông chí ở các
nước Châu Ấu và Bắc Mỹ. Thánh Nicola có nhiều tên gọi khác, hình ảnh khác, thỉnh
thoảng mang luôn cả hình ảnh một người đàn ông có bầy quỷ dữ tháp tùng đi tìm
kiếm và trừng phạt các trẻ em hư hỏng.
Đến thế kỷ 19, những hình ảnh này đã hòa hợp vào với
hình ảnh một Thánh Nicola trong hình dáng một ông già tươi vui mặc áo lông,
mang theo rất nhiều quà. Hình ảnh ông già Noel đi xe kéo bởi 8 con nai sừng cao
rồi chui vào ống khói phát quà cho trẻ em đầu tiên được tạo ra bởi ông Clement
Clarke Moore, tác giả của bài thơ bất hủ: "A visit from St. Nicholas"
Bản
thảo viết tay bài "A Visit from St. Nicholas", của nhà thơ Mỹ Clement
Clarke Moore viết năm 1822, có chữ ký, được bán với giá 280.000 USD.
Sang thế kỷ 20, vào năm 1931, một họa sĩ người Thụy
Điển Haddon Sundblom đã sáng tạo ra một hình ảnh mới lạ về Ông già Noel (hay
Santa Claus). Theo cách vẽ của Sundblom thì ông già Noel là một ông già mà đỏ,
râu tóc bạc trắng, ánh mắt vui tươi, mình mặc bộ áo quần lông màu đỏ có viền trắng.
Họa sĩ đã lấy hình ảnh người bán hàng Lou Prentice, bạn thân ông để làm mẫu cho
ông già Noel mới và cũng là hình ảnh cho chiến dịch quảng cáo rầm rộ của hãng
Coca- Cola. Trong những thập niên sau đó, họa sĩ Sundblom tiếp tục vẽ đến 44
hình ảnh Santa Claus khác nhau. Những ông già Noel này, cứ mỗi lần đến mùa
Giáng sinh lại xuất hiện trên lon nước Coca- Cola ở mọi nơi trên thế giới.
Cây thông giáng sinh cao nhất thế giới là 67,4 mét được dựng tại Northgate Shoping Center, thành phố Seattle, bang Washington vào tháng 12 năm 1950
Truyền thuyết cây Giáng sinh bắt đầu có từ thế kỷ thứ 13 khi Thánh Bonifacio, một nhà truyền giáo người Anh tại Đức dùng rìu đốn một cây cổ thụ và tìm thấy dưới gốc cây những bộ xương của những người đã từng bị làm vật tế thần
Chồng của Nữ Hoàng Victoria (Anh), Prince Albert, là người có công lớn trong việc truyền bá tục chưng cây Giáng sinh vào mùa Noel hàng năm.
Chiếc bánh giáng sinh lớn nhất nặng 3,28 được làm ra bởi cư dân làng Aughton, Anh. Họ đã mất 7 ngày để làm ra chiếc bánh khổng lồ này
Kỷ lục về việc gởi thiệp chúc Noel do ông Werneer Erhard giữ khi trong tháng 12 năm 1975 ông đã gởi đi tất cả 62.824 thiệp.
Tấm thiệp Giáng sinh đầu tiên của lịch sử được gởi đi bởi Sir Henry Cole vào năm 1834
Andi Nguyễn Ánh Nhật (Lượm lặt)
13 tháng 12, 2013
Nhớ khoai chà như nỗi nhớ quê!
Ngày xưa nói về ẩm thực, con người thường thưởng thức bằng
một tâm hồn mở rộng để đón nhận và để tận hưởng một món ngon từ công sức lao động
qua nhiều công đoạn chế biến, cũng như tận hưởng tình thương của cả gia đình nên những
món ăn ngày ấy vô cùng tuyệt diệu. Còn ngày nay, đời sống hàng ngày gần như quấn hút lấy
con người, ngay cả ở nông thôn có mấy ai ngồi tẩn mẩn giã nhuyễn từng thúng khoai
lang, rồi ray nhỏ tơi như hạt cát để có được những hũ khoai chà giòn thơm.
Khoai chà đã có một “sứ mệnh lịch sử” về một thời đói cơm, thiếu mắm. Nó là "người bạn thân thiết" của mọi người dân đất Quảng Nam yêu thương. Nhạc sĩ Đình Thậm từng viết trong ca khúc “Miền trung quê mẹ” của mình: “Một miền quê nghèo mẹ đã nuôi anh từ nắm khoai chà từ niêu cơm tấm, chan hòa câu ca gừng cay muối mặn, khúc hát thương nhau nặng nghĩa nặng tình". Một ca khúc mà mỗi khi ai có hát ở trong một tâm trạng nào đi nữa thì cũng thấy như đã thấm vào máu thịt của ta tình quê, nghĩa đất miền Trung.
Khoai chà đã có một “sứ mệnh lịch sử” về một thời đói cơm, thiếu mắm. Nó là "người bạn thân thiết" của mọi người dân đất Quảng Nam yêu thương. Nhạc sĩ Đình Thậm từng viết trong ca khúc “Miền trung quê mẹ” của mình: “Một miền quê nghèo mẹ đã nuôi anh từ nắm khoai chà từ niêu cơm tấm, chan hòa câu ca gừng cay muối mặn, khúc hát thương nhau nặng nghĩa nặng tình". Một ca khúc mà mỗi khi ai có hát ở trong một tâm trạng nào đi nữa thì cũng thấy như đã thấm vào máu thịt của ta tình quê, nghĩa đất miền Trung.
Khoai
chà ngày nay như một món ăn xa xỉ và quý hiếm. Mỗi khi nhắc đến khoai chà, tôi
nhớ lại ngày xưa. Và
đã hơn nửa đời người, đã bôn ba tứ xứ, ăn biết bao nhiêu món ngon vật lạ, nhưng
hình như chưa bao giờ tôi cảm thấy ngon như được ăn khoai chà khi đi chăn trâu về bụng đói. Hồi ấy, mỗi khi đi làm đồng về chưa có cơm, tôi
thường hay hỏi mẹ: “Có cái chi ăn không mẹ?”. Mẹ nhẹ nhàng bảo: “Có chi mô, con lấy khoai chà trong hũ ngào
đường ăn tạm, chờ mẹ nấu cơm!”. Tôi liền chạy ra
sau vườn bứt vài lá mít xanh vào làm muỗng và ăn một bụng no nê, để rồi đến lúc mẹ
dọn cơm lên cũng đành phải goodbye
cơm cá. Cũng như chú tôi, là một lực điền
chân quê, nhưng mỗi buổi đi cày về bụng đói là chỉ cần ăn một bát khoai
chà rộm với nước sôi, uống thêm một chén nước chè đậm đặc thím nấu là no quên
cả trưa. Cho đến bây giờ, tôi cũng không biết vì sao ăn khoai chà mà xúc bằng
mít lại ngon. Chắc có lẽ món này vốn thanh đạm mang đầy tính cách của người dân
Quảng nên cách ăn cũng phải giản đơn và mộc mạc như khoai!. Vả lại một lần ăn khoai chà như được một lần thưởng thức mùi thơm của lá cây. Xúc một miếng khoai chà ngào
đường rồi từ từ đưa vào miệng, những hạt tinh khoai bột vỡ ra hòa lẫn hương vị
ngọt của đường mía thanh thanh, mỗi nhịp nhai như cứ muốn đọng tại lưỡi một mùi
ngô khoai là lạ của đất, của trời ban cho.
Khoai
chà đối với tôi còn là một ký vãng của một thời thơ bé. Đó là những ngày mùa đông, mẹ
không đi chợ được vì quê hương miền Trung bạc trắng một màu sóng lũ, những trận lụt nhừ
tử, liên miên hay những ngày đông lạnh giá co ro bụng đói, chúng tôi nằm trong
chăn ngậm nhai khoai chà lộm ngộm. Khoai chà trong ký ức là những đêm trăng
thanh gió mát, bên chiếc chõng tre ngoài sân, mẹ kể cho chị em tôi nghe về
nguồn gốc, về cuộc trường chinh khai canh khai khẩn của làng quê Cẩm Lũ – Bình Tú
– Thăng Bình. Và mẹ thường đọc câu ca dao: “Trăng rằm đã tỏ lại tròn, khoai lang đất
cát đã ngon lại bùi…” như một niềm tự hào của vùng đất trồng khoai lang
quê tôi. Mẹ còn nói về đặc điểm khoai của từng vùng miền quê xứ Quảng, về
Khoai Trà Đỏa, Bình Sa, Bình Triều, Bình Tú - Thăng Bình, về Khoai Tam Kỳ,
Khoai Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn…. Nhưng nức tiếng nhất vẫn là khoai Thăng
Bình vì bùi, lại thơm vốn là nguồn gốc để chế biến món khoai chà thành đặc sản
của vùng đất quê tôi. Mẹ còn giải thích khoai Thăng Bình ngon là nhờ trồng
trên đất tơi và xốp, và khi xưa được chăm sóc hàng ngày bằng gánh từng thùng nước nhĩ
và bón khoai từ những cây thực vật đã ủ từ khi còn xanh. Chuyện mẹ kể ngày xưa,
chúng tôi nghe hoài không chán.....
Ký
vãng với khoai chà là những tháng năm tôi ra thành phố học tập. Cứ mỗi lần tôi
về nhà thăm nhà rồi trở ra trường học, mẹ bao giờ cũng không quên nhét cho một xách khoai
chà giòn thơm. Đâu chỉ có riêng tôi, khoai chà còn là món quà quê không thể
thiếu trong hành lý của bao thế hệ con em Quảng Nam đi học nơi xa. Nhớ những ngày đầu
món này theo "sinh viên nông thôn" như tôi “di cư” ra ký túc. “Bọn sinh viên con nhà giàu thành phố" chưa từng biết sự “lợi hại” của món này, tỏ ra khinh thị.
Có đứa lại cười
cười, phẩy tay, thay cho lời chê “thực bất tri kỳ vị”. Rồi những trưa ngủ dậy
buồn mồm, những chiều gió hiu hiu bụng đói, thấy chúng tôi lấy một bụm khoai
chà ra ăn, ngon đến thượng đế cũng phát thèm, còn những sinh viên kia khuôn mặt lại cứ ngẫn
ngơ. Đến khi bị rủ rê, họ lúc đầu ăn miễn cưỡng, nhưng khi nghiện rồi nên thấy đứa nào
chuẩn bị về quê cũng có lời dặn dò, nhắc nhở: "Nhớ về quê mang khoai
chà ra đó nghe !”. Và có lẽ chưa có món quà quê dân dã và mộc nạc nào có thể làm
cho bạn bè tôi nghiện như món khoai chà ngày ấy. Khi ăn, như vừa
nghẹn lại, nhưng luôn cảm thấy thích, thấy ngon……Bởi sao không ngon được, vì đây là món
dễ dàng cảm nhận được những hương vị ngọt ngào của khoai, vị nồng nàn của nắng
gió, hai thứ đã quyện lẫn vào nhau, thật thanh tao, lại là thật gần gũi với
cuộc sống và thiên nhiên.
Ngày
xưa, để có món khoai chà mẹ tôi làm chẳng có gì gọi là khó. Chỉ khó và nhặt
công hơn so với khoai lang xắt lát phơi khô, khoai dai (khoai dẻo), khoai ngào
đường (Khoai khô), làm bánh tráng khoai nướng... . Cứ đến tháng 4, tháng 5 là
khoai ở ngoài đồng thu hoạch về, làm khoai chà mẹ tôi không bao giờ vội vả, mẹ
luôn chờ một ngày nắng đẹp mới bắt đầu làm khoai. Khi bắt đầu làm, ngày hôm
trước mẹ lựa những củ khoai không bị sùng, bị hư, da láng thuộc loại khoai Trùi
Sa hay khoai Hổ (Những loại khoai khác như khoai Huỳnh Anh, khoai Kontum
v.v.v làm khoai chà không ngon)….. ….. Gọt hai đầu, rửa sạch rồi mẹ đem vào nấu
chín từ sáng sớm hôm sau. Khi khoai đã chín, để cho khoai thật nguội, chờ mặt
trời lên, mẹ đem khoai ra giã nhuyễn trong chiếc cối giã gạo, rồi chà trên
chiếc rổ thưa có chiếc nong bên dưới. Công đoạn cuối cùng là khi đã phơi nắng khoai đã se se, mẹ dùng chiếc rổ nhặt, nhẫn nại chà đến khi
nào nhìn thấy khoai đã tơi tơi như đất mới thôi. Tôi nghĩ, có lẽ chính động tác tỉ mỉ, nhẫn nại
chà khoai mà tạo nên tên gọi khoai chà cho món ăn này.
Mẹ thường nói làm khoai chà
để cho có mùi vị thơm ngon cũng phải có bí quyết riêng. Ngoài cách phải chọn khoai "đẹp" và lựa ngày nắng
nóng, nhất định không có mưa đêm, để còn phơi sương khoai được "ba
sương, bốn nắng". Làm như vậy như để có âm, có dương được thấm vào từng
hạt khoai nhỏ li ti. Mẹ còn bảo, khoai chà nên để trong những hũ sành đậy kín để giữ hương vị luôn được thơm ngon.
Khi khoai đã khô đù nắng, mẹ còn cẩn thận lấy sàng ra để từng
phân khoai loại hạt lớn, hạt nhỏ để ra riêng. Làm như vậy để thích ứng với
trong từng cách ăn khoai chà thì mới thấy vị ngon. Như khoai lớn chỉ cần rộm với nước sôi một bát nhỏ là no tứ sáng đến chiều, còn khoai hạt nhỏ thì ngào
chung với đường và đậu phụng rang giã nhỏ thì có thể ăn mãi cho đến khi như.....bể bụng!.
Cách làm khoai chà đơn giản vậy, nhưng đó là món khoái khẩu của mọi người dân quê tôi ngày ấy. Còn bây giờ, những người con xa quê, xa tổ quốc vẫn cứ ao ước một miếng khoai chà trộn chung với đường có biết bao nhiêu là nhớ, là thương, là những kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu…
Cách làm khoai chà đơn giản vậy, nhưng đó là món khoái khẩu của mọi người dân quê tôi ngày ấy. Còn bây giờ, những người con xa quê, xa tổ quốc vẫn cứ ao ước một miếng khoai chà trộn chung với đường có biết bao nhiêu là nhớ, là thương, là những kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu…
Cuộc
sống ngày hôm nay tuy có khó khăn nhưng vẫn hơn chục lần thuở ấy, không bao giờ
thiếu nắm cơm, hạt muối. Người lớn khi bụng đói, ngoài những món bình dân được người
ta bày bán, còn có Mì gói bình dân Hảo Hảo, hay sang hơn là miến Phú
Hương cấp tốc. Còn trẻ em sau một vòng dạo chơi hay đi cò cò, bắn bi, chạy nhảy lại có bánh bích quy, bánh sữa và còn nhiều thứ khác v.v.v. Chắc bởi thế mà những năm gần đây món khoai chà như đã “thất truyền”, nên mỗi lần về quê
tôi cảm thấy nhớ xôn xao.
Lại
mấy ngày nay trời Miền trung âm u và mưa phùn lất phất, ai cũng chờ một đợt
nắng để trở mình cho đất. Ước cái lạnh trốn đi nhường cho một đợt nằng huênh
hoang, rực rỡ. Riêng tôi còn một điều ao ước lớn hơn, đó là có một nồi khoai
lang thật ngon, thật bùi, hay một tô khoai chà ngào đường với đậu phụng rang
giã nhỏ thật thơm để ăn cho thỏa thuê, thỏa thích như ngày xửa , ngày xưa……
Andi Nguyễn Ánh Nhật
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)
BÀI ĐƯỢC NHIỀU ĐỘC GIẢ ĐỌC
-
Đến Tây Bắc, bên con sông Nậm Nhé, ta có thể nhận ra bản Thái qua những đặc điểm như cọn nước, cối nước, những điệu múa xoè liên tu bất tận...
-
SUỐI MƠ - Đẹp như một giấc mơ Nhớ hôm đầu năm 2014, tôi cùng với Thu Do Rita, Tuyết Lê và Tuấn “ngố” hành hương về Chùa Bà Chúa Xứ,...
-
Chí Phèo là nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng cùng tên của nhà văn Nam Cao. Trong tác phẩm này nhiều nhà nghiên cứu, phê bìn...
-
MỌI LÚC MỌI NƠI! ĂN MẶC HỞ HANG QUÁ EM VUI HỌC TOÁN ...
-
Thành phố Tam Kỳ là “anh em” của thành phố Đà Nẵng, là “con” của đất Quảng Nam yêu thương và đã “ra riêng” sau khi tách tỉnh Quảng Nam –...
-
“Những cây cầu ở Quận Madison” của tác giả Robert James Waller là cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất năm 1992. Đó là câu chuyện về mộ...
-
Những người đọc truyện của Nguyễn Nhật Ánh đều không xa lạ hình ảnh Chợ Đo Đo - Một hình tượng văn học trở đi rồi trở lại trong cá...
-
Đã từ lâu tôi vẫn thường đi đó đây và thích “phiêu lưu với cuộc đời” bằng chiếc Honda cà tàng của mình. Như thế người ta gọi là phượt...
-
Những ngày cuối năm 2013, đi khảo sát một dự án sẽ làm trong năm 2014 1. TẠI ĐỒN CẢNH SÁT Một cô gái mặt tái mét, nước ...
-
Tôi đã đi lên miền biên viễn. Bức tranh bờ cõi, mỗi thời mỗi khác... Ôi quá đìu hiu...